Giao lưu với nhà thơ Y Phương

09:40 16/04/2019

Chiều ngày 12/4/2019, học sinh Khối 9 Nguyễn Siêu đã có một trải nghiệm khó quên với tác giả bài thơ "Nói với con" trong chương trình Ngữ văn 9.

Một không khí chăm chú, xúc động của văn chương và những câu chuyện ký ức bao trùm lấy hội trường.

Dường như chưa bao giờ hội trường lại yên lặng đến thế, những đôi tay ghi chép lại bận bịu đến thế và những câu hỏi lại thú vị và sâu sắc như vậy và thỉnh thoảng xen lẫn những tràng cười thú vị vì những chi tiết bất ngờ qua câu chuyện dí dỏm của nhà thơ.

Chỉ với vài tiếng đồng hồ trò chuyện với nhà thơ, các bạn đã cùng hiểu thêm về vùng văn hóa Tày, giải mã ngôn từ và những tầng ngữ nghĩa,... Cùng sống lại một thời kháng chiến chống Mĩ hào hùng, gian khổ và lãng mạn mà nhà thơ đã dự phần trong đó...

Một buổi chiều trước kỳ nghỉ lễ hẳn đã để lại trong lòng các bạn học sinh những dư âm sâu xa về một thông điệp mà nhà thơ đã nói với con, nói với chính mình: "Lên đường, không bao giờ nhỏ bé được, nghe con!"

===============

Về bài thơ NÓI VỚI CON

(Bài viết cho buổi nói chuyện với các em học sinh Trường Nguyễn Siêu - Hà Nội)

Tôi viết bài thơ “Nói với con” vào những năm 80 của thế kỷ trước. Vào những năm đó, một bức tranh toàn cảnh nghèo khó, túng thiếu kể cả tinh thần lẫn vật chất bao trùm lên toàn miền Bắc và miền Nam Việt Nam, bởi toàn quân và dân ta vừa bước ra khỏi cuộc chiến tranh chống Mĩ cứu nước ác liệt kéo dài suốt mấy thập kỉ ròng rã. Những hi sinh về con người, mất mát về của cải vật chất vô cùng to lớn. Không thể nào tính đếm kể xiết.

Hậu chiến. Các tầng lớp nhân dân ta, đâu đâu cũng lâm vào cảnh khó khăn trong đời sống thường nhật. Buộc lòng người ta ai ai phải tìm cách bươn trải cho cuộc mưu sinh. Mà vùng rốn nghèo đói nhất lại dồn về khu vực người dân tộc thiểu số.

Quê tôi là một trong những tỉnh nghèo nhất nước. Một hiện thực bần hàn diễn ra từng ngày. Cảnh công nhân viên chức chờ lĩnh đồng lương còm cõi, xếp hàng dài để mua được những lon gạo mốc, vài mớ rau héo, con cá khô thối thiu... Cảnh những người nông dân rách rưới lên rừng đào củ mài, hái củi. Cảnh những đứa trẻ người dân tộc thiểu số bỏ học, rủ nhau lên nương rẫy mót từng mẩu sắn thâm, lội xuống suối xúc tép, bắt cua. Cảnh các mẹ các bà đầu tắt mặt tối lo từng bữa ăn. Và từng ngày, mọi người dân buộc lòng phải đương đầu chống lại cái nghèo đói. Họ đã chống lại cái đói bằng nhiều cách, để có miếng cơm manh áo cho con cái, kể cả các kiểu làm ăn chụp giật, thật đúng là “đói ăn vụng, túng làm liều”.

Hiện thực đời sống xã hội dội đến đã tạo điều kiện để văn nghệ sĩ cho ra đời những tác phẩm MÙA XUÂN đất nước. Có thể gọi đó là những “Tiếng ca mùa xuân cay đắng”. Nói như một nhà thơ, đây là thời kỳ văn chương “ngứa tấy” lên “da non”. Cho đến ngày nay, các thế hệ người thưởng thức văn chương nghệ thuật chân chính, làm sao quên được những gam màu tối xám về những đứa con tinh thần của họ. Đó là: “Mùa xuân đầu tiên” của Văn Cao. “Mùa xuân bên cửa sổ” của Xuân Hồng. “Tướng về hưu” của Nguyễn Huy Thiệp. Và đặc biệt là “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh...

Bài thơ “Nói với con” trong tập thơ “Tiếng Hát Tháng Giêng” của tôi xuất bản năm 1986. Tập thơ này được giải thưởng Hội Nhà văn năm 1987, giải thưởng Nhà nước năm 2007.

Khi viết bài thơ này, con gái tôi vừa tròn 1 tuổi. Con tôi sinh đúng vào những ngày vừa xảy ra chiến tranh biên giới phía Bắc. Bọn bành trướng xua quân đánh chiếm làng quê chúng tôi. Máu chảy đầu rơi ngay trên mảnh đất Cao Bằng, Lạng Sơn, Hà Giang… - Nơi một thời là chiếc nôi, là căn cứ địa cách mạng của cả nước. Người dân quê tôi vốn cả đời sống hiền lành thật thà chất phác cả tin, đâu có ngờ “anh bạn vàng” thọc ngay mũi dao nhọn vào trúng ngực mình. Khi chiến tranh bùng phát, những người nông dân không kịp trở tay. Họ mất hết nhà cửa trâu bò... Làng xóm tan hoang như vừa vừa trải qua cơn nạn hồng thủy.

Khó khăn chồng chất đè lên những tấm lưng xác xơ, gầy còm. Đây là cơ hội người tốt kẻ xấu lộ diện. Là lúc “lửa thử vàng, gian nan thử sức”. Người ngay kẻ gian dần dần bộc lộ, phân biệt rõ ràng tối - sáng, trắng - đen. Niềm tin trong con người đâu đó bắt đầu lung lay. Nhiều văn nghệ sĩ đã lên tiếng về hai mảng sáng tối này.

Khi đó tôi viết bài thơ Nói với con là nói với chính mình. Dặn lòng không được sa ngã, dù lâm vào bất cứ hoàn cảnh nào. Cha mẹ từng dạy tôi rằng: “Nẳng chinh bấu lao ngầu pay” (tức là ngồi ngay ngắn thì không sợ ngã), khi tất cả trời đất mù mờ hỗn độn, thì ta phải ngồi ngay ngắn, sẽ không bị lệch bóng mình. Nước dù có đục ngầu, nhưng nhờ có lối sống sạch, lòng ta luôn luôn trắng trong. Nghĩa là hãy đặt niềm tin vào truyền thống thống đạo đức văn hóa của dân tộc.

Văn hóa - Đấy là cái cuối cùng còn lại sau khi “vật đổi sao dời”. Tiền bạc, của cải có thể mất mát, có thể bị tiêu hủy. Nhưng tình người không được để hao hụt méo mó. Cha ông người Tày chúng tôi dạy rằng: “Tiền bạc như đất cỏ, mặt mũi tựa ngàn vàng”. Tiền của nếu mất mát có thể lấy lại bất cứ lúc nào. Nhưng đạo lý con người, niềm tin con người, tình cảm con người… phải mất vài trăm năm mới tìm lại được.

Văn hóa chưa bao giờ là súng ống đạn dược. Nói đến súng đạn là nơi bắn giết. Ngược lại, văn hóa là nơi tin yêu, là nơi ta sinh nở, là nơi ta trưởng thành, lớn khôn, là nơi ta cư xử đạo lý làm người. Nói cho cùng, văn hóa làm cho con người sống đàng hoàng với tầm vóc cao lớn. “Con Người” hai chữ được viết hoa. Mà xét cho cùng, cái gốc của văn hóa là giáo dục. Không có giáo dục là không có gì cả...

Bài thơ Nói với con là tiếng lòng của tác giả dặn dò cho chính mình, và với con cháu của mình mà thôi.

Tôi tập trung xây dựng hình tượng nghệ thuật trên cứ liệu hiện thực. Từ tình cảm gia đình chồng vợ cha con, nói rộng ra quê hương đất nước. Từ nếp sinh hoạt đời thường đến phong tục tập quán ổn định đời đời.

Về nghệ thuật, tôi sử dụng hình thức thơ tự do. Đây là thể thơ mà tôi thường dùng.

Tự do - đó là yêu cầu tự thân. Tự do - tôi viết theo mạch cảm xúc. Tự do- tôi không bị gò bó bất cứ niêm luật khắt khe nào. Tự do - đó là hơi thở của tôi. Tự do - đó là đánh bóng không cần lưới, mà vẫn không bị phạm luật đặc trưng của nghệ thuật thi ca.

Y PHƯƠNG